Bước tới nội dung

Gerard 't Hooft

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là phiên bản hiện hành của trang này do InternetArchiveBot (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 23:29, ngày 15 tháng 9 năm 2023 (Reformat 1 URL (Wayback Medic 2.5)) #IABot (v2.0.9.5) (GreenC bot). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang.

(khác) ← Phiên bản cũ | Phiên bản mới nhất (khác) | Phiên bản mới → (khác)
Gerard 't Hooft
November 2008
Sinh5 tháng 7, 1946 (78 tuổi)
Den Helder, Hà Lan
Quốc tịchHà Lan
Trường lớpĐại học Utrecht
Nổi tiếng vìLý thuyết trường lượng tử, Hấp dẫn lượng tử, Đơn cực 't Hooft–Polyakov, Ký hiệu 't Hooft, 't Hooft operator, Holographic principle, Renormalization, Dimensional regularization
Giải thưởngHeineman Prize (1979)
Giải thưởng Wolf (1981)
Huy chương Lorentz (1986)
Giải thưởng Spinoza (1995)
Huy chương Franklin (1995)
Giải Nobel vật lý (1999)
Huy chương vàng Lomonosov (2010)
Sự nghiệp khoa học
NgànhVật lý lý thuyết
Nơi công tácĐại học Utrecht
Người hướng dẫn luận án tiến sĩMartinus J. G. Veltman
Các nghiên cứu sinh nổi tiếngRobbert Dijkgraaf
Herman Verlinde

Gerardus (Gerard) 't Hooft (Tiếng Hà Lan: [ˌɣeːrɑrt ət ˈɦoːft]; sinh 5 tháng 7 năm 1946) là một nhà vật lí lí thuyết và giáo sư tại Đại học Utrecht, Hà Lan.[1] Ông đã chia sẻ Giải Nobel Vật lý năm 1999 với cố vấn luận văn Martinus J.Geleltelt về việc "làm sáng tỏ cấu trúc lượng tử của các tương tác điện tử".

Các tác phẩm của ông tập trung vào lý thuyết đo, các lỗ đen, trọng lực lượng tử và các khía cạnh cơ bản của cơ học lượng tử. Đóng góp của ông cho vật lý bao gồm một bằng chứng rằng các lý thuyết đo được đều có thể tái chuẩn hóa, chuẩn theo chiều không gian, và tuân theo nguyên tắc holographic.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ 't Hooft, G. (1999). “Gerardus 't Hooft — Autobiography”. Nobel web. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2010.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]